Sử dụng xương động vật hoặc vỏ ốc, hến và cát làm hệ đệm ph được không?
Thành phần hóa học của mô xương và mô sụn
Xương gồm có chất nền đặc tạo ra lớp bề mặt và chất xốp
bên trong. Chất nền của mô xương gồm có phần hữu cơ thấm muối khoáng, khoảng 20
÷ 30% nước, 75 ÷ 80% chất khác trong đó có 30% protid và 45% hợp chất vô cơ.Hợp
chất vô cơ của mô xương gồm có 84 ÷ 85% Ca3(PO4)2, 9,5 ÷
10,2% CaCO3,
2,2 ÷ 3% Mg3(PO4)2, 2,8 ÷ 3% CaF2 và các muối Na, K, Fe, Clorua …
Thành phần chất hữu cơ chủ yếu trong xương là osein
(tương tự như collagen)và chất béo, collagen chiếm 93% protid của xương. Lượng
chất béo trong xương khoảng 3,8 ÷ 27%.Tủy trong ống xương do tế bào mỡ tạo
thành và chứa hầu hết các thành phần hữu hình của máu như globulin, albumin,
glycogen, acid lactic, các men và chất béo.
Phản ứng diễn ra khí trong nước có thành phần CaCO3
CaCO3 ↔ Ca2+ + CO32–
CO32– +
H2O ↔ HCO3– + OH–
HCO3– + H2O↔CO2 + OH–
Phản ứng diễn ra khi có axit mạnh vào môi trường nước
CaCO3 + 2HCl = CaCl2 + CO2 + H2O .
Lưu ý: CaCl2 là hợp chất dễ tan
Thành phần của cát
Thành phần phổ biến nhất của cát tại các môi trường đất liền trong
lục địa và các môi trường không phải duyên hải khu vực nhiệt đới là silica (điôxít silic hay SiO2), thường ở dạng thạch anh, là chất với độ trơ về mặt hóa học cũng như do có độ
cứng đáng kể, nên có khả năng chống phong hóa khá tốt.
Tuy nhiên, thành phần hợp thành của cát có sự biến động lớn, phụ thuộc
vào các nguồn đá và các điều kiện khác tại khu vực. Các loại cát trắng tìm thấy ở các vùng duyên hải nhiệt đới và cận nhiệt đới là đá vôi bị xói mòn và có
thể chứa các mảnh vụn từ san hô hay mai (vỏ) của động vật cùng các vật liệu hữu cơ hay có
nguồn gốc hữu cơ khác.[1] Các đụn cát thạch cao ở Di tích quốc gia
White Sands tại bang New Mexico (Hoa Kỳ) nổi
tiếng vì màu trắng chói của nó. Acco (arkose)
là cát hay sa thạch với hàm lượng fenspat đáng kể, có nguồn gốc từ quá trình phong hóa và xói mòn của đá granit (thường là cận kề). Một vài loại cát còn chứa manhêtit, chlorit, glauconit hay thạch cao.
Cát giàu manhêtit có màu từ sẫm tới đen, giống như cát có nguồn gốc từ đá bazan
núi lửa và opxidian (obsidian). Cát chứa chlorit-glauconit thông thường có màu
xanh lục (còn được gọi là cát lục), như cát có nguồn gốc từ bazan (dung nham) với hàm lượng olivin lớn . Nhiều loại cát, đặc biệt cát ở Nam Âu, chứa các tạp chất sắt trong các tinh thể thạch anh của cát, tạo ra cát có màu vàng sẫm. Cát trầm
lắng tại một số khu vực chứa ngọc hồng lựu và một số khoáng vật có sức kháng phong hóa tốt, bao gồm
một lượng nhỏ các loại đá quý.Phản ứng diễn ra khi có bazơ mạnh vào môi trường nước
SiO2
+ 2NaOH = Na2SiO3 + HOH
2Si + 2NaOH + 4H2O
= 2NaSiO3 + 5H2
Sử than làm hệ đệm ph được không?
Thành phần hoá học của than.
Trong than, các nguyên tố cấu thành
bao gồm các thành phần sau:
Cacbon . Cacbon là thành
phần cháy chủ yếu trong nhiên liệu rắn , nhiệt lượng phát ra khi cháy của 1 kg
cacbon gọi là nhiệt trị của cacbon, khoảng 34.150 kj/kg. Vì vậy lượng cacbon
trong nhiên liệu càng nhiều thì nhiệt trị của nhiên liệu càng cao. Tuổi hình
thành nhiên liệu càng già thì thành phần cacbon càng cao, song khi ấy độ liên
kết của than càng lớn nên than càng khó cháy.
Hyđrô . Hydro là thành
phần cháy quan trọng của nhiên liệu rắn, khi cháy toả ra nhiệt lượng 144.500
kj/kg. Nhưng lượng hyđrô có trong thiên nhiên rất ít. Trong nhiên liệu lỏng
hyđrô có nhiều hơn trong nhiên liệu rắn.
Lưu huỳnh . Lưu
huỳnh là thành phần cháy trong nhiên liệu. Trong than lưu huỳnh tồn tại dưới ba
dạng: liên kết hữu cơ Shc, khoáng chất Sk, liên kết
sunfat Ss.Lưu huỳnh hữu cơ và khoáng chất có thể tham gia quá trình
cháy gọi là lưu huỳnh cháy Sc. Còn lưu huỳnh sunfat
thường nằm dưới dạng CaSO4, MgSO4 , FeSO4 ..,
những liên kết này không tham gia quá trình cháy mà chuyển thành tro của nhiên
liệu
đolomit
(CaCO3. MgCO3) và là thành phần chính của các
loại than mỏ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét