Phospho được thực vật hấp thụ dưới dạng H3PO4 hoặc h(PO4)2. thiếu P biểu hiên ở các lá già khi P được vận chuyển đến các các lá non. thiếu P cây cằn cỗi, thiếu phát triển có màu đo đỏ do sự gia tăng các sắc tố màu. bình thường tổng hàm lượng khô của phốt pho trong cây từ 0.25 - 0.6%. khi nó giảm xuống 0.1 là thiếu P trầm trọng. thừa P trong vùng rễ làm cây trậm lớn, còi cọ do P cản trở hấp thụ Zn, Fe, Cu. mặc dù bạn bón rất nhiều phân vi lượng này
Khi pH cao hay nhiệt độ thấp cây khó hấp thụ P vì thế khi trồng thủy canh cần duy trì từ khoảng pH 5.6 - 6.5 (với từng loại cây có chênh lệch chút ít). Độ pH của dung dịch thủy canh luôn thay đổi chứ không cố định như lúc chúng ta mới pha. Sự axit hóa được thực hiện bởi các thành phần axit như sulphuric.
Các dạng
phosphorus hữu cơ dễ dàng chuyển hóa lẫn nhau và có thể chuyển hóa thành dạng
muối orthophosphate hòa tan nhờ hoạt động của vi sinh vật. ví dụ, sau khi thực
vật nổi chết đi, bị các vi sinh vật phân hủy, người ta thấy có tới 20% - 30% tổng
số phosphorus thong cơ thể chúng được phân giải thành các muối vô cơ hòa tan,
30-40% dạng hữu cơ hòa tan.
Các muối hòa
tan của phosphorus trong nước sẽ hấp thu bởi thực vật hay lớp bùn đáy. Lớp bùn
đáy chứa nhiều axit hữu cơ hay CaCO3 dễ hấp thụ mạnh muối orthophosphate hòa
tan trong nước. Có nhiều loại vi khuẩn có khả năng hấp thu một lượng nhỏ muối
Ca3(PO4)2 không hòa tan một cách trực tiếp hay sau khi tạo thành các acid
phosphorus hữu cơ hay ammoniphosphate hòa tan, đưa phosphorus trở lại vòng tuần
hoàn vật chất trong thủy vực.
Liên kết của
các ion kim loại với phosphate tao thành từ bước quá độ của các phản ứng kết tủa
và phản ứng bề mặt. Quá trình hấp thụ phosphate bằng nhôm hydroxyt, sắt
hydroxyt hoặc các oxit ngâm nước tuân theo cơ chế lien hợp và đạt cực đại ở giá
trị pH mà tại đó tồn tại dạng ion H2PO4. Bước quá độ chuyển sang môi trường kiềm
có tác dụng như là một quá trình hấp thụ. Đặc trưng tổng hợp quá trình chuyển
pha của photphate là từ pha lỏng qua pha
rắn là tỷ lệ giữa kim loại và phosphate trong sản phẩm kết tủa. tỷ lệ này thường
lớn hơn 1, kết quả là một phần lớn phosphate đưa vào đất dưới dạng phân bón
không chuyển hóa thành chất dinh dưỡng. vì vậy tùy theo tính chất của từng loại
đất mà phần phosphate theo phân bón có thể giữ lại, không có tác dụng tích cực.
Dung dịch nước
của các sản phẩm phân ly của H3PO4 phụ thuộc nhiều vào giá trị pH ở những hình
thái H3PO4, H2PO4-, HPO4, PO4 -3. Trước hết các gốc thực vật sẽ hấp thụ H2PO4-
và HPO4 2- . Ở pH<=6 bắt đầu có sự cố định phosphate với lien kết Fe 3+ và
Al 3+ chủ yếu dẫn tới kết tủa các phosphate kiềm của Fe 3+ và Al 3+. ở pH
>=7 bắt đầu kết tủa các caxiphosphate như CaHPO4 hoặc các hydrolapatit. Do đó
khi sử dụng phosphate làm chất dinh dưỡng cho thực vật thì yêu cầu giá trị pH
trong một giới hạn hẹp, vì nếu ở điều kiện không thích hợp các phosphate sẽ bị
giữ lại trong đất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét