28 thg 7, 2013

VAI TRÒ CỦA P ĐỐI VỚI CÂY CỐI


Phospho được thực vật hấp thụ dưới dạng H3PO4 hoặc h(PO4)2. thiếu  P biểu hiên ở các lá già khi P được  vận chuyển đến các các lá non. thiếu P cây cằn cỗi, thiếu phát triển có màu đo đỏ do sự gia tăng các sắc tố màu. bình thường tổng hàm lượng khô của phốt pho trong cây từ 0.25 - 0.6%. khi nó giảm xuống 0.1 là thiếu P trầm trọng. thừa P trong vùng rễ làm cây trậm lớn, còi cọ do P cản trở hấp thụ Zn, Fe, Cu. mặc dù bạn bón rất nhiều phân vi lượng này   
Khi pH cao hay nhiệt độ thấp cây khó hấp thụ P vì thế khi trồng thủy canh cần duy trì từ khoảng  pH 5.6 -  6.5 (với từng loại cây có chênh lệch chút ít). Độ pH của dung dịch thủy canh luôn thay đổi chứ không cố định như lúc chúng ta mới pha. Sự axit hóa được thực hiện bởi các thành phần axit như sulphuric.
Các dạng phosphorus hữu cơ dễ dàng chuyển hóa lẫn nhau và có thể chuyển hóa thành dạng muối orthophosphate hòa tan nhờ hoạt động của vi sinh vật. ví dụ, sau khi thực vật nổi chết đi, bị các vi sinh vật phân hủy, người ta thấy có tới 20% - 30% tổng số phosphorus thong cơ thể chúng được phân giải thành các muối vô cơ hòa tan, 30-40% dạng hữu cơ hòa tan.
Các muối hòa tan của phosphorus trong nước sẽ hấp thu bởi thực vật hay lớp bùn đáy. Lớp bùn đáy chứa nhiều axit hữu cơ hay CaCO3 dễ hấp thụ mạnh muối orthophosphate hòa tan trong nước. Có nhiều loại vi khuẩn có khả năng hấp thu một lượng nhỏ muối Ca3(PO4)2 không hòa tan một cách trực tiếp hay sau khi tạo thành các acid phosphorus hữu cơ hay ammoniphosphate hòa tan, đưa phosphorus trở lại vòng tuần hoàn vật chất trong thủy vực.
Liên kết của các ion kim loại với phosphate tao thành từ bước quá độ của các phản ứng kết tủa và phản ứng bề mặt. Quá trình hấp thụ phosphate bằng nhôm hydroxyt, sắt hydroxyt hoặc các oxit ngâm nước tuân theo cơ chế lien hợp và đạt cực đại ở giá trị pH mà tại đó tồn tại dạng ion H2PO4. Bước quá độ chuyển sang môi trường kiềm có tác dụng như là một quá trình hấp thụ. Đặc trưng tổng hợp quá trình chuyển pha của photphate là từ pha lỏng  qua pha rắn là tỷ lệ giữa kim loại và phosphate trong sản phẩm kết tủa. tỷ lệ này thường lớn hơn 1, kết quả là một phần lớn phosphate đưa vào đất dưới dạng phân bón không chuyển hóa thành chất dinh dưỡng. vì vậy tùy theo tính chất của từng loại đất mà phần phosphate theo phân bón có thể giữ lại, không có tác dụng tích cực.

Dung dịch nước của các sản phẩm phân ly của H3PO4 phụ thuộc nhiều vào giá trị pH ở những hình thái H3PO4, H2PO4-, HPO4, PO4 -3. Trước hết các gốc thực vật sẽ hấp thụ H2PO4- và HPO4 2- . Ở pH<=6 bắt đầu có sự cố định phosphate với lien kết Fe 3+ và Al 3+ chủ yếu dẫn tới kết tủa các phosphate kiềm của Fe 3+ và Al 3+. ở pH >=7 bắt đầu kết tủa các caxiphosphate như CaHPO4 hoặc các hydrolapatit. Do đó khi sử dụng phosphate làm chất dinh dưỡng cho thực vật thì yêu cầu giá trị pH trong một giới hạn hẹp, vì nếu ở điều kiện không thích hợp các phosphate sẽ bị giữ lại trong đất.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét